Thống kê diễn đàn

Bài viết
110,475
Bình luận
804,395
Thành viên
110,338
Thành viên mới nhất
learntrade2025

Thành viên trực tuyến

Không có thành viên nào trực tuyến.

Phân tích liên thị trường: Lợi ích nào cho nhà đầu tư?

Phân tích liên thị trường: Lợi ích nào cho nhà đầu tư?

Phân tích liên thị trường: Lợi ích nào cho nhà đầu tư?

Lương Thanh Hà

Active Member
33
130
Thread cover
data/threadprofilecover/3654.jpeg
Phân tích một thị trường riêng lẻ là sự nghiên cứu về một lớp tài sản hoặc một thị trường duy nhất trong một quốc gia cụ thể nào đó. Phân tích liên thị trường là sự nghiên cứu đa dạng về lớp tài sản, thị trường và quốc gia trên thế giới. Câu hỏi đặt ra ở đây là: “Xét về khía cạnh lợi nhuận thu được, liệu những nhà đầu tư và trader sử dụng phương thức thứ hai sẽ thật sự có lợi hơn không?”

Chúng ta hẳn đã từng nghe về tầm quan trọng của một danh mục đầu tư đa dạng. “Không bao giờ để tất cả trứng vào cùng một rổ” là câu nói của miệng của rất nhiều chuyên gia tài chính. Điều mà họ muốn nhấn mạnh với chúng ta là việc giới hạn những khoản đầu tư chỉ trong phạm vi một vài công ty sẽ làm làm tăng đáng kể rủi ro mắc phải, đặc biệt khi một hoặc hai nơi đầu tư chính của bạn đang gặp phải vấn đề.

Những nhà đầu tư lựa chọn lối đầu tư cổ điển này thường nắm giữ một số cổ phiếu của những công ty khác nhau và có thể của một số quỹ tương hỗ khác, nhằm đa dạng hoá danh mục của mình. Nếu bạn cảm thấy điều này đúng với mình thì xin chúc mừng bạn! Nhưng trước khi tự tán thưởng mình, hãy tự suy nghĩ câu hỏi này: “Bạn có thực sự đa dạng hoá danh mục của mình khi bạn chỉ đầu tư vào cổ phiếu và trái phiếu, và phần lớn chúng chỉ nằm trong giới hạn thị trường của một quốc gia?”

Theo John Murphy, tác giả của cuốn “Intermarket Analysis” ( tạm dịch “phân tích liên thị trường”), cho rằng một chiến lược đầu tư thực sự đa dạng cần phải bao gồm những khoản đầu tư trong tất cả bốn lớp tài sản chính: cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ và hàng hoá. Nói cách khác, phân tích liên thị trường muốn nhấn mạnh về sự đa dạng của các khoản mục đầu tư trong nhiều thị trường trên khắp thế giới chứ không nên chỉ giới hạn trong một quốc gia đơn nhất. Bằng cách tham gia nhiều thị trường khác nhau, một nhà đầu tư sẽ có cái nhìn tổng quan hơn và có thể nắm bắt được những biến động đáng kể của thị trường cũng như nền kinh tế sớm hơn những nhà đầu tư chỉ tập trung vào duy nhất một thị trường. Một nhà đầu tư đa thị trường có thể chuyển các khoản mục nắm giữ của mình từ một ngành hoặc thị trường này sang ngành hoặc thị trường khác, gọi là thay đổi nhóm ngành, khi điều kiện thay đổi.

Một nhà đầu tư với chiến lược liên thị trường sẽ nắm giữ những khoản mục trong một số quốc gia và theo dõi một số chỉ số quốc tế của các lớp tài sản khác nhau như trái phiếu, hàng hoá và tiền tệ. Một danh mục như vậy sẽ bao gồm khoản 50% đến 60% ( thay vì 100%) chứng khoán Mỹ, và phần còn lại gồm những chứng khoán từ những thị trường top đầu trong ngành và cả quốc gia. Không chỉ vậy, chiến lược liên ngân hàng cần sự phân tích thị trường liên quan đến những phương pháp phân tích kĩ thuật, để xác định và điều chỉnh sự phân bổ tài sản dựa theo sự điều kiện thay đổi của thị trường. Hãy cùng nghiên cứu những kết quả của chiến lược này mang lại cho một nhà đầu tư trong vài năm trước năm 2004 so với phương pháp chỉ tập trung duy nhất vào thị trường cổ phiếu Mỹ.

1. Chỉ số Hang Seng và Semiconductor

Như đã được đề cập, chiến lược liên thị trường liên quan đến việc theo dõi những chỉ số đa quốc gia và mối quan hệ giữa chúng. Cụ thể trong ví dụ của nhóm chỉ số Hong Kong là Hang Seng và Semiconductor, hai chỉ số này thể hiện mối tương quan cao với nhau. Hang Seng thường thể hiện hướng đi trước của semiconductor nên intermarket trader có thể lợi dụng điều này để phán đoán và đặt lệnh mua bán cho cổ phiếu semiconductor. Chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn thông qua một số ví dụ về biểu đồ so sánh chỉ số semiconductor (SOXX) và Hang Seng trong thời gian dài từ năm 1997 đến năm 2003.

phan-tich-lien-thi-truong-loi-ich-nao-cho-nha-dau-tu-1.png
Ảnh 1- Biểu đồ theo dõi hàng tuần của chỉ số Hang Seng Index (bên dưới) và chỉ số Semiconductor (SOXX) cho thấy mối tương quan rõ rệt và Hang Seng thể hiện trước hướng đi của SOXX. Từ số 1 đến số 4 ta nhận thấy dấu hiệu mua (màu xanh) và bán (màu đỏ đậm). Ngày và dấu hiệu được nhận thấy thông qua những đoạn ngắt của dòng xu hướng. Biểu đồ được trích từ MetaStock.com.

Tại 1, Hang Seng cho thấy dấu hiệu mua tại điểm ngắt vào ngày 17 tháng 10 năm 1997, gần như cùng thời gian với dòng xu hướng bán của chỉ số Philadelphia Semiconductor. Như vậy, dòng xu hướng của cả hai chỉ số có điểm ngắt gần như đồng thời là một điềm báo rõ ràng nhà đầu tư nên “rút chân” khỏi Semiconductor.

Vào ngày 2 tháng 10 năm 1998, chỉ số Hang Seng có dấu hiệu nên mua vào nhưng SOXX không thể hiện một dấu hiệu tương tự cho đến một tuần sau đó vào ngày 23 tháng 10. Điều này có nghĩa là nếu những nhà đầu tư chỉ theo dõi chỉ số Semiconductor và mua vào với giá 248 sẽ “chậm chân” một tuần so với những nhà đầu tư nhờ theo dõi cả hai chỉ số nên đã mua được với giá thấp hơn, 200 điểm. (Điểm 2 trên biểu đồ)

Đến điểm thứ 3 của chỉ số Hang Seng thật sự cho thấy rõ lợi thế “đón đầu” của những nhà đầu tư liên thị trường. Dòng xu hướng của Hang Seng bị gãy khúc vào ngày 4 tháng 4 năm 2000, dự đoán trước dấu hiệu bán cho Semiconductor, khi SOXX đang được giao dịch với mức giá 1150. Tuy nhiên, SOXX không cho thấy bất cứ dấu hiệu rõ rệt nào cho đến sáu tháng sau đó vào ngày 6 tháng 10 năm 2000, khi chỉ số được giao dịch với mức giá chỉ 850. Những nhà đầu tư chỉ theo dõi một chỉ số Semiconductor duy nhất chỉ thu được mức lợi nhuận là 26%, thấp hơn so với những nhà đầu tư theo dõi sự biến đổi cả hai chỉ số.

Chỉ số Hang Seng lại một lần nữa báo hiệu mua vào sớm hơn vào ngày 6 tháng 6 năm 2003 (điểm 4), khi mức giao dịch hiện thời là 360. Tuy nhiên, SOXX chỉ cho thấy dấu hiệu tương tự vào hai tháng sau đó, khi giao dịch được thực hiện ở mức 400 điểm, cao hơn 10%.

2. Các sản phẩm hàng hoá và chiến lược đồng đô la Canada

Bằng cách mở rộng tầm nhìn của mình, nhà đầu tư sẽ tận dụng được cơ hội bảo vệ các khoản đầu tư của mình với chiến lược tiền tệ hiệu quả. Nói một các đơn giản, chiến lược này được thực hiện bằng cách bán các trái phiếu và cổ phiếu được tính theo các đồng tiền yếu hơn và mua lại chúng bằng các đồng tiền mạnh hơn ngay khi có thể.

Cả đồng CAD và USD đều có mối tương quan mật thiết với hàng hoá. Khi giá hàng hoá cao, cả hai loại tiền tệ đều cho thấy những dấu hiệu khả quan. Một trader Canada có thể mua và bán các cổ phiếu và trái phiếu Canada với một trader láng giềng ở Mỹ mà không gặp bất cứ trở ngại nào. Biểu đồ 2 cho thấy sức mạnh tương đối của đồng đô Canada so với đồng đô Mỹ.

phan-tich-lien-thi-truong-loi-ich-nao-cho-nha-dau-tu-1.png
phan-tich-lien-thi-truong-loi-ich-nao-cho-nha-dau-tu-2.gif
Ảnh 2- Biểu đồ ghi nhận tỷ giá hàng ngày của đồng CAD và USD. Có thể thấy rõ đường xu hướng dài hạn bị phá vỡ xảy ra vào tháng 4 năm 2002 và sự tăng nhanh về giá trị của đồng đô Canada so với đô Mỹ trong 18 tháng sau đó. Vào tháng 4, đồng đô Canada được giao dịch với giá 63 cents Mỹ. Đến tháng 12 năm 2003, giao dịch này lại được xác định ở mức giá 77 cents Mỹ, tăng đến 22%. Điều này tạo lợi thế cho những danh mục với tài sản bằng đồng đô Canada. Nguồn MetaStock.com.

Trong suốt những năm 90 của thế kỉ 20, đồng đô của Mỹ mạnh hơn, báo hiệu những trader Mỹ nhanh chóng “rút chân” ra khỏi những khoản đầu tư của Canada. Tuy nhiên, đối với những trader chỉ nhìn đơn thuần vào chỉ số Commodity Research Bureau (viết tắt: CRB; tạm dịch: Chỉ số giá hàng hoá-cho thấy sự biến động về giá của các loại hang hoá), sẽ nhận ra giá hàng hoá và đồng đô Canada bắt đầu tăng. Chỉ số CRB giảm vào đầu năm 2002, báo hiệu các nhà đầu tư mua vào hàng hoá. Tháng 4 năm 2002, tình thế của thị trường thay đổi vì đồng đô Mỹ đang yếu dần đi và giá hàng hoá đang dần dần khôi phục.

Trong ví dụ trước về chỉ số semiconductor, sự phá vỡ đường xu hướng báo hiệu cho nhà đầu tư thực hiện các lệnh mua vào hay bán ra. Còn đối với biểu đồ về sức mạnh tương đối của hai loại tiền tệ trong ví dụ thứ hai này, khi tỷ giá CAD/USD thay đổi vào đầu năm 2002, nhà đầu tư nên chuyển những tài sản dưới mệnh giá đồng đô Mỹ sang đầu tư vào các công ty ở Canada.

3. Những bài học kinh nghiệm khác

Phân tích liên thị trường còn giúp chúng ta tìm ra mối quan hệ giữa trái phiếu, cổ phiếu và hàng hoá trong chu kì kinh doanh. Giá trái phiếu nhìn chung thường báo hiệu sự hồi phục của giá cổ phiếu, trong khi giá hàng hoá lại cho thấy sự bắt đầu của một chu kì mở rộng kinh tế. Khi sự mở rộng đã đạt đỉnh và bắt đầu chậm dần, phân tích liên thị trường giúp trader chờ đợi cho giá trái phiếu sụt giảm trước (khi lãi suất tăng lên), tiếp theo đó là cổ phiếu. Một khi giá hàng hoá giảm, quá trình mở rộng nền kinh tế đang dần đi đến giai đoạn kết thúc và tiếp nối chính là quá trình giảm chậm và suy thoái.

Kết luận

Nhìn lại những năm gần đây, chính ta có thể thấy được phân tích dưới góc độ liên thị trường có thể mang lại lợi thế cho nhà đầu tư hơn là tầm nhìn đối với một thị trường đơn nhất. Một nhà đầu tư thông minh cần biết quan sát biến động của thị trường châu Á, châu Âu cũng như Mỹ vì bất cứ một thay đổi trong một thị trường nào cũng sẽ có ảnh hưởng lên những thị trường khác, đặc biệt trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay. Chúng ta cũng thấy được hiệu quả phương pháp liên thị trường trong việc lợi dụng sức mạnh của tiền tệ để quyết định thị trường quốc gia nào mang lại những khoản đầu tư an toàn nhất.

Theo Matt Blackman

Nguồn Investopia
 
 

Giới thiệu sách Trading hay
Phương Pháp Wyckoff Hiện Đại - Kỹ thuật Nhận diện Xu hướng Thị trường Tiềm năng

Phương pháp Wyckoff là một phương pháp price action kinh điển và đem lại thành công cho nhiều trader. Phương pháp này là nền tảng của nhiều phương pháp trading nổi tiếng khác
cũ thể là thế này: khi phân tích liên trường tức là chúng ta không chỉ nên chu ý vào một thị trường duy nhất mà là đặt sự chú ý vào 4 thị trường nền tản cơ bản gồm Chứng khoán (CK), Hàng Hóa (HH), Trái Phiếu (TP), Tiền Tệ ($) vì về cơ bản mọi thị trường đều liên kết với nhau và tham gia vào việc cấu thành nên một hệ thống tài chính hoàn thiện. Ở đây tôi sẽ tổng hợp ngắn ngọn lại những mối quan hệ chính yếu mà những ai phân tích liên trường cũng đều phải đặc biệt lưu ý quan tâm.

1.HH và TT : có mối quan hệ ghịch đảo với nhau cứ nhìn Vàng và $ là sẽ hiểu.
2.HH và TP : có mối quan hệ tương quan mật thiết với nhau vì HH là đại diện cho Kỳ Vọng LP ( ở đay tôi ghi là Kỳ vọng LP chứ không phải là LP chính thức LP chính thức là CPI). và TP là đại diện của LS mà KP và LS lại là sợ dây thun kết nối với tất cả thị trường và tác động lên nó vì thế rất dễ hiệ mối quan hệ của nó lại quan trọng đến vậy.
3.TP và TT : vì TP là lãi suất (LS) mà LS lại có liên hệ với $ cũ thể là LS tăng $ tăng và ngược lại nên TP và TT có mối quan hệ tương quan lẫn nhau.
4. CK-TT : Có mối quan hệ cung cầu lẫn nhau. Ngắn ngọn đại ý là thế.
5 CK-HH-TT: dự trên những nền tản cơ bản bên trên các bác tự suy ra nhá.

trong ba mối liên kết đó chỉ có 3 cái đầu là nền tản cơ bản là mâu chốt để tựa suy ra cho những cái khác vì thế phải đặt biệt nắm rõ 3 cái đầu tiên.

PS: hôm qua lười ghi giả thích quá nên ko ghi hôm nay rảnh vào hoàng thành nốt việc gian dở còn lại
 
 
Chỉnh sửa lần cuối:
cũ thể là thế này: khi phân tích liên trường tức là chúng ta không chỉ nên chu ý vào một thị trường duy nhất mà là đặt sự chú ý vào 4 thị trường nền tản cơ bản gồm Chứng khoán (CK), Hàng Hóa (HH), Trái Phiếu (TP), Tiền Tệ ($) vì về cơ bản mọi thị trường đều liên kết với nhau và tham gia vào việc cấu thành nên một hệ thống tài chính hoàn thiện. Ở đây tôi sẽ tổng hợp ngắn ngọn lại những mối quan hệ chính yếu mà những ai phân tích liên trường cũng đều phải đặc biệt lưu ý quan tâm.

1.HH và TT : có mối quan hệ ghịch đảo với nhau cứ nhìn Vàng và $ là sẽ hiểu.
2.HH và TP : có mối quan hệ tương quan mật thiết với nhau vì HH là đại diện cho Kỳ Vọng LP ( ở đay tôi ghi là Kỳ vọng LP chứ không phải là LP chính thức LP chính thức là CPI). và TP là đại diện của LS mà KP và LS lại là sợ dây thun kết nối với tất cả thị trường và tác động lên nó vì thế rất dễ hiệ mối quan hệ của nó lại quan trọng đến vậy.
3.TP và TT : vì TP là lãi suất (LS) mà LS lại có liên hệ với $ cũ thể là LS tăng $ tăng và ngược lại nên TP và TT có mối quan hệ tương quan lẫn nhau.
4. CK-TT : Có mối quan hệ cung cầu lẫn nhau. Ngắn ngọn đại ý là thế.
5 CK-HH-TT: dự trên những nền tản cơ bản bên trên các bác tự suy ra nhá.

trong ba mối liên kết đó chỉ có 3 cái đầu là nền tản cơ bản là mâu chốt để tựa suy ra cho những cái khác vì thế phải đặt biệt nắm rõ 3 cái đầu tiên.

PS: hôm qua lười ghi giả thích quá nên ko ghi hôm nay rảnh vào hoàng thành nốt việc gian dở còn lại

Gửi anh fuyloon2018,

Em cám ơn comment của anh. Về cơ bản thì trên lý thuyết thì như vậy nhưng em nghĩ hẳn là khi trading trên thị trường thật sự sẽ có nhiều khác biệt so với sách vở ạ. Phương pháp phân tích này là công cụ sẽ hỗ trợ cho các quyết định đầu tư phù hợp nhất.

Chúc anh ngày mới tốt lành.

Best regards,

Thanh Hà
 
 

BÌNH LUẬN MỚI NHẤT

  • black trong Lập trình MQL - Expert Advisor - Indicator 56,761 Xem / 200 Trả lời
  • ManhKP trong Trao Đổi về Broker 1,354 Xem / 5 Trả lời
  • phuongle trong Phân tích Bitcoin - Altcoins - Cryptocurrency 16,233 Xem / 161 Trả lời
  • ManhKP trong Trao Đổi về Broker 1,389 Xem / 6 Trả lời
  • nhatwang trong Phân tích Forex - Vàng - Hàng hóa 203 Xem / 1 Trả lời
  • DuongHuy trong Phân tích Bitcoin - Altcoins - Cryptocurrency 85,496 Xem / 118 Trả lời
  • DuongHuy trong Phân tích Forex - Vàng - Hàng hóa 558 Xem / 3 Trả lời
  • AdBlock Detected

    We get it, advertisements are annoying!

    Sure, ad-blocking software does a great job at blocking ads, but it also blocks useful features of our website. For the best site experience please disable your AdBlocker.

    Back
    Bên trên

    Miễn trừ trách nhiệm

    Tất cả nội dung trên website này đều vì mục đích cung cấp thông tin và không phải lời khuyên đầu tư.

    Tại Việt Nam, giao dịch CFD forex có các rủi ro nhất định, trong đó bao gồm rủi ro về pháp lý. Độc giả nên tìm hiểu kỹ trước khi đưa ra quyết định tham gia.