- 5,415
- 30,278
Ủy ban Thị trường mở Liên bang (FOMC) sẽ tổ chức một cuộc họp vào tuần này, cuộc họp này có thể rất quan trọng ngay cả khi không có bất kỳ thay đổi nào về lãi suất.
Sau khi tăng lãi suất quỹ liên bang lên một con số khổng lồ, 5,25% trong một năm rưỡi qua, đợt thắt chặt tiền tệ mạnh mẽ nhất trong hơn một thế hệ, hội đồng thiết lập chính sách của FED gần như chắc chắn sẽ giữ nguyên phạm vi lãi suất chủ chốt của mình trong cuộc họp tháng 9. Hầu hết các nhà bình luận đều bị ám ảnh bởi câu hỏi liệu có thể có một đợt tăng lãi suất 25bps nữa trong năm nay không?
Nhưng điều đó đã dẫn đến việc xao nhãng đi một câu hỏi quan trọng khác, đó là về lộ trình chính sách lãi suất trong 2024 và xa hơn. Theo John Ryding, cố vấn kinh tế trưởng của Brean Capital và là người theo dõi Fed Phố Wall lâu năm, người cũng từng làm việc cho cả FED và BoE, điều quan trọng hơn việc lãi suất tăng cao như thế nào là chúng sẽ tồn tại ở đó trong bao lâu.
Các Dự báo kinh tế tổng hợp (SEP) gần đây nhất của FED đã chỉ ra rằng họ sẽ tăng lãi suất thêm 25bps vào cuối năm nay, đưa lãi suất lên mức dự báo trung bình là 5,6%. Trong khi đó, thị trường đang đặt ra xác suất khoảng 40% về việc tăng lãi suất như vậy vào tháng 12 và 60% khả năng không có đợt tăng lãi suất đó.
Xa hơn, SEP dự báo trung bình về việc cắt giảm 1% lãi suất vào cuối 2024, xuống còn 4,6%. Nhưng có rất nhiều kết quả xoay quanh “xu hướng trọng tâm” đó, dao động từ 4,4% đến 5,1%. Tuy nhiên, kể từ đó, đã có rất nhiều những thay đổi diễn ra.
Dự báo lãi suất quỹ liên bang của FOMC và thị trường - Nguồn: FED
Nền kinh tế đã hoạt động tốt hơn dự kiến của Fed, điều này có nghĩa là sẽ có một số điều chỉnh đáng kể so với bản SEP hồi tháng 6.
Các nhà kinh tế của Bank of America cho rằng ước tính tổng sản phẩm quốc nội thực tế năm 2023 sẽ được điều chỉnh tăng trưởng lên 2%, từ mức 1%. Họ mong đợi tỷ lệ thất nghiệp cuối năm sẽ được điều chỉnh lên 3,8%, phù hợp với số liệu của tháng 8, từ mức 4,1%. Đối với lạm phát, các nhà kinh tế của BofA nhận thấy các số liệu gần đây dẫn đến ước tính 3,7% cho chi tiêu tiêu dùng cá nhân cốt lõi, hay PCE, từ ước tính 3,9% của tháng Sáu. Về cơ bản, các con số đang được điều chỉnh theo kết quả thực tế.
Tiết lộ lớn sẽ chính là về việc FED mong đợi cho năm 2024. Một quan niệm phổ biến là nếu lạm phát giảm theo dự báo của FOMC, thì việc không cắt giảm lãi suất sẽ dẫn đến sự thắt chặt “thụ động” do lãi suất thực tăng lên. SEP tháng 6 đã dự tính chỉ số PCE lõi sẽ giảm rõ rệt vào năm tới, xuống còn 2,6%, nằm trong phạm vi mục tiêu dài hạn 2% của Fed.
Nhưng dự đoán bốn lần cắt giảm lãi suất 4 điểm phần trăm vào năm tới “có thể hơi nhiều.” FED đã tham gia vào một cuộc chiến tốn kém nhằm giảm lạm phát và cho đến nay họ đã làm rất tốt. Sẽ thuận lợi hơn cho FED trong việc giữ lãi suất và chờ cắt giảm khi cần thiết.
John Ryding nói rằng điều cuối cùng mà các nhà hoạch định chính sách muốn làm là phải tăng lãi suất lần nữa, một giải pháp mà Fed đã thực hiện trong những năm 1970. Việc cắt giảm sớm cũng có thể gây rủi ro cho sự bất ổn tài chính, đặc biệt nếu chúng gây ra sự phục hồi của các tài sản rủi ro.
Một khía cạnh khác bị bỏ qua là lãi suất cân bằng dài hạn thực tế (long-run equilibrium real fed-funds rate), cái mà FOMC đã giả định là 0,5%, sau khi trừ đi tỷ lệ lạm phát dài hạn giả định là 2%.
Tuy nhiên, vẫn còn câu hỏi liệu tỷ lệ thực cân bằng đó (được các nhà kinh tế gọi là R*) có còn là mức 0,5% mà Fed giả định hay không. Bởi mức độ này, vốn không thúc đẩy hay kìm hãm nền kinh tế, là không thể quan sát được trong thời gian thực.
Ryding thắc mắc tại sao mức 0,5% đó lại được giả định khi thị trường ước tính rằng tỷ lệ lãi suất cân bằng dài hạn thực tế đã tăng lên khoảng 2%.
Một lý do để cho rằng lãi suất cân bằng đã tăng lên là do thâm hụt ngân sách liên bang rất lớn. Bởi việc mở rộng tài chính sẽ làm tăng lãi suất, trừ khi ngân hàng trung ương cung cấp khoản vay bổ sung.
Fed hiện đang làm điều ngược lại, giảm lượng nắm giữ trái phiếu kho bạc và chứng khoán được thế chấp, khiến khu vực tư nhân phải tài trợ nhiều hơn cho khoản vay khổng lồ của chính phủ liên bang. Tất cả những yếu tố khác đều bằng nhau, điều đó có nghĩa là mức lãi suất cao hơn.
Ryding nói rằng đây là một vấn đề dài hạn mà Fed phải bắt đầu giải quyết, mặc dù ông nói thêm rằng điều đó khó có thể xảy ra tại cuộc họp tuần tới.
Điều mà các nhà đầu tư nên tập trung vào là những dự đoán cho năm 2024 thay vì phỏng đoán về phần còn lại của năm 2023. Giả định về việc cắt giảm lãi suất vào năm tới dựa trên việc lạm phát tiếp tục giảm ngay cả khi giá dầu thô tăng vọt, điều này có thể ảnh hưởng đến các chi phí khác, như cảnh báo từ một số hãng hàng không trong tuần qua.
Nền kinh tế Mỹ cũng tiếp tục thách thức những dự đoán về suy thoái kinh tế, bất chấp việc lãi suất cực thấp đã kết thúc. Tất cả những điều đó cho thấy FOMC có thể giữ lãi suất cao hơn trong thời gian dài hơn.
Sau khi tăng lãi suất quỹ liên bang lên một con số khổng lồ, 5,25% trong một năm rưỡi qua, đợt thắt chặt tiền tệ mạnh mẽ nhất trong hơn một thế hệ, hội đồng thiết lập chính sách của FED gần như chắc chắn sẽ giữ nguyên phạm vi lãi suất chủ chốt của mình trong cuộc họp tháng 9. Hầu hết các nhà bình luận đều bị ám ảnh bởi câu hỏi liệu có thể có một đợt tăng lãi suất 25bps nữa trong năm nay không?
Nhưng điều đó đã dẫn đến việc xao nhãng đi một câu hỏi quan trọng khác, đó là về lộ trình chính sách lãi suất trong 2024 và xa hơn. Theo John Ryding, cố vấn kinh tế trưởng của Brean Capital và là người theo dõi Fed Phố Wall lâu năm, người cũng từng làm việc cho cả FED và BoE, điều quan trọng hơn việc lãi suất tăng cao như thế nào là chúng sẽ tồn tại ở đó trong bao lâu.
Các Dự báo kinh tế tổng hợp (SEP) gần đây nhất của FED đã chỉ ra rằng họ sẽ tăng lãi suất thêm 25bps vào cuối năm nay, đưa lãi suất lên mức dự báo trung bình là 5,6%. Trong khi đó, thị trường đang đặt ra xác suất khoảng 40% về việc tăng lãi suất như vậy vào tháng 12 và 60% khả năng không có đợt tăng lãi suất đó.
Xa hơn, SEP dự báo trung bình về việc cắt giảm 1% lãi suất vào cuối 2024, xuống còn 4,6%. Nhưng có rất nhiều kết quả xoay quanh “xu hướng trọng tâm” đó, dao động từ 4,4% đến 5,1%. Tuy nhiên, kể từ đó, đã có rất nhiều những thay đổi diễn ra.
Nền kinh tế đã hoạt động tốt hơn dự kiến của Fed, điều này có nghĩa là sẽ có một số điều chỉnh đáng kể so với bản SEP hồi tháng 6.
Các nhà kinh tế của Bank of America cho rằng ước tính tổng sản phẩm quốc nội thực tế năm 2023 sẽ được điều chỉnh tăng trưởng lên 2%, từ mức 1%. Họ mong đợi tỷ lệ thất nghiệp cuối năm sẽ được điều chỉnh lên 3,8%, phù hợp với số liệu của tháng 8, từ mức 4,1%. Đối với lạm phát, các nhà kinh tế của BofA nhận thấy các số liệu gần đây dẫn đến ước tính 3,7% cho chi tiêu tiêu dùng cá nhân cốt lõi, hay PCE, từ ước tính 3,9% của tháng Sáu. Về cơ bản, các con số đang được điều chỉnh theo kết quả thực tế.
Tiết lộ lớn sẽ chính là về việc FED mong đợi cho năm 2024. Một quan niệm phổ biến là nếu lạm phát giảm theo dự báo của FOMC, thì việc không cắt giảm lãi suất sẽ dẫn đến sự thắt chặt “thụ động” do lãi suất thực tăng lên. SEP tháng 6 đã dự tính chỉ số PCE lõi sẽ giảm rõ rệt vào năm tới, xuống còn 2,6%, nằm trong phạm vi mục tiêu dài hạn 2% của Fed.
Nhưng dự đoán bốn lần cắt giảm lãi suất 4 điểm phần trăm vào năm tới “có thể hơi nhiều.” FED đã tham gia vào một cuộc chiến tốn kém nhằm giảm lạm phát và cho đến nay họ đã làm rất tốt. Sẽ thuận lợi hơn cho FED trong việc giữ lãi suất và chờ cắt giảm khi cần thiết.
John Ryding nói rằng điều cuối cùng mà các nhà hoạch định chính sách muốn làm là phải tăng lãi suất lần nữa, một giải pháp mà Fed đã thực hiện trong những năm 1970. Việc cắt giảm sớm cũng có thể gây rủi ro cho sự bất ổn tài chính, đặc biệt nếu chúng gây ra sự phục hồi của các tài sản rủi ro.
Một khía cạnh khác bị bỏ qua là lãi suất cân bằng dài hạn thực tế (long-run equilibrium real fed-funds rate), cái mà FOMC đã giả định là 0,5%, sau khi trừ đi tỷ lệ lạm phát dài hạn giả định là 2%.
Tuy nhiên, vẫn còn câu hỏi liệu tỷ lệ thực cân bằng đó (được các nhà kinh tế gọi là R*) có còn là mức 0,5% mà Fed giả định hay không. Bởi mức độ này, vốn không thúc đẩy hay kìm hãm nền kinh tế, là không thể quan sát được trong thời gian thực.
Ryding thắc mắc tại sao mức 0,5% đó lại được giả định khi thị trường ước tính rằng tỷ lệ lãi suất cân bằng dài hạn thực tế đã tăng lên khoảng 2%.
Một lý do để cho rằng lãi suất cân bằng đã tăng lên là do thâm hụt ngân sách liên bang rất lớn. Bởi việc mở rộng tài chính sẽ làm tăng lãi suất, trừ khi ngân hàng trung ương cung cấp khoản vay bổ sung.
Fed hiện đang làm điều ngược lại, giảm lượng nắm giữ trái phiếu kho bạc và chứng khoán được thế chấp, khiến khu vực tư nhân phải tài trợ nhiều hơn cho khoản vay khổng lồ của chính phủ liên bang. Tất cả những yếu tố khác đều bằng nhau, điều đó có nghĩa là mức lãi suất cao hơn.
Ryding nói rằng đây là một vấn đề dài hạn mà Fed phải bắt đầu giải quyết, mặc dù ông nói thêm rằng điều đó khó có thể xảy ra tại cuộc họp tuần tới.
Nhà đầu tư, trader nên tập trung vào đâu?
Điều mà các nhà đầu tư nên tập trung vào là những dự đoán cho năm 2024 thay vì phỏng đoán về phần còn lại của năm 2023. Giả định về việc cắt giảm lãi suất vào năm tới dựa trên việc lạm phát tiếp tục giảm ngay cả khi giá dầu thô tăng vọt, điều này có thể ảnh hưởng đến các chi phí khác, như cảnh báo từ một số hãng hàng không trong tuần qua.
Nền kinh tế Mỹ cũng tiếp tục thách thức những dự đoán về suy thoái kinh tế, bất chấp việc lãi suất cực thấp đã kết thúc. Tất cả những điều đó cho thấy FOMC có thể giữ lãi suất cao hơn trong thời gian dài hơn.
Tham khảo: Barron’s
Giới thiệu sách Trading hay
Phương Pháp VPA - Kỹ Thuật Nhận Diện Dòng Tiền Thông Minh bằng Hành Động Giá kết hợp Khối Lượng Giao Dịch
Phương pháp VPA - Volume Price Analysis - là phương pháp Price Action hướng dẫn ĐỌC GIÁ / NẾN kết hợp với KHỐI LƯỢNG GIAO DỊCH để tìm ra hướng đi của DÒNG TIỀN THÔNG MINH
Bài viết liên quan