- 19,171
- 88,493
- Thread cover
- data/assets/threadprofilecover/bobvolman-2025-10-14T120333-1760418220.650-1760418220.png
- Chủ đề liên quan
- 94366, 88942, 88840, 88882,
Tóm tắt bài trước:
Hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu về đường xu hướng trên biểu đồ PnF:
Đường xu hướng trên biểu đồP&F được vẽ ở góc 45 độ hướng lên và 135 độ hướng xuống nên chúng được gọi là đường xu hướng khách quan (không phụ thuộc vào sự chủ quan của người vẽ. Đường xu hướng tăng được gọi là Đường Hỗ trợ Tăng, và đường xu hướng giảm được gọi là Đường Kháng cự Giảm. Chúng có tên như vậy là vì chúng vừa đóng vai trò xác định xu hướng, đồng thời là các hỗ trợ, kháng cự. Vì các đường này được vẽ ở các góc cụ thể, chúng thể hiện tốc độ tăng hoặc giảm cụ thể. Đường xu hướng P&F xác định xu hướng chung và giúp xác định các tín hiệu theo xu hướng chính.
Trong biểu đồ P&F, luôn có Đường Hỗ trợ Tăng hoặc Đường Kháng cự Giảm. Sau khi vượt lên trên Đường Kháng cự Giảm, một Đường Hỗ trợ Tăng sẽ được vẽ từ một đáy quan trọng. Đường này sẽ mở rộng lên một góc 45 độ và duy trì hiệu lực cho đến khi bị phá vỡ. Khi bị phá vỡ, Đường Hỗ trợ Tăng sẽ ngừng hoạt động và một Đường Kháng cự Giảm mới sẽ được vẽ từ một đỉnh quan trọng gần điểm phá vỡ. Đường này sẽ mở rộng xuống một góc 135 độ và duy trì hiệu lực cho đến khi bị phá vỡ.
Biểu đồ bên dưới cho thấy Noble Drilling (NE) với bốn đường xu hướng. Đường Kháng cự Giảm kéo dài đến hết năm 2008 và bị phá vỡ vào đầu năm 2009 (màu đỏ 2). Đường Kháng cự Giảm kết thúc, và một Đường Hỗ trợ Tăng được vẽ từ mức thấp. Đường này kéo dài đến hết năm và bị phá vỡ vào tháng 4 năm 2010 (giữa màu đỏ 4 và màu đỏ 5). Một Đường Kháng cự Giảm mới được vẽ từ mức cao cho đến khi phá vỡ vào tháng 10 năm 2010 (màu đỏ A).
Đường Kháng cự Giảm và Tăng trong biểu đồ P&F.
Nhìn chung, xu hướng tăng xuất hiện khi giá nằm trên đường Hỗ trợ tăng. Đường này mở rộng lên một góc 45 độ để đảm bảo một tốc độ tăng nhất định. Biến động giá đi ngang hoặc tốc độ tăng chậm hơn sẽ dẫn đến việc phá vỡ đường xu hướng. Theo lý thuyết P&F, tín hiệu mua nên được đưa ra khi giá nằm trên đường xu hướng này, và tín hiệu giảm nên được bỏ qua và sử dụng như tín hiệu đóng lênhj. Đây là giao dịch theo hướng của xu hướng chính.
Biểu đồ bên dưới cho thấy mã cổ phiếu Agilent (A) với Đường Hỗ trợ Tăng màu xanh lam. Có ít nhất ba tín hiệu tăng giá trên đường xu hướng này. Đã có hai lần phá vỡ mô hình Ba Đỉnh vào năm 2009, tiếp theo là một lần phá vỡ Mô hình Tín hiệu Giảm đảo ngược vào cuối năm 2010. Chữ "A" màu đỏ trên biểu đồ đánh dấu sự phá vỡ Mô hình Hai Đỉnh, xác nhận mô hình đảo chiều sau tín hiệu giảm. Chữ "A" màu đỏ này cũng đánh dấu tháng Mười.
Biểu đồ thể hiện một đường hỗ trợ tăng, môt tín hiệu phá vỡ mô hình Ba Đỉnh và mô hình đảo chiều sau tín hiệu giảm
Xu hướng giảm hiện diện khi giá vẫn nằm dưới Đường Kháng cự Giảm. Đường này kéo dài xuống một góc 135 độ, chỉ là một góc 45 độ đảo ngược (180 - 45 = 135). Góc này đòi hỏi một tốc độ giảm nhất định. Biến động giá đi ngang hoặc giảm chậm hơn sẽ dẫn đến sự phá vỡ đường xu hướng. Theo lý thuyết P&F, chúng ta sẽ vào lệnh bán khi có tín hiệu bán xuất hiện dưới Đường Kháng cự Giảm giá. Tín hiệu tăng giá nên được bỏ qua hoặc sử dụng để chốt lời cho các vị thế bán khống.
Biểu đồ dưới đây cho thấy giá Qualcom (QCOM) nằm dưới Đường Kháng cự Giảm vào cuối năm 2008. Sau khi thiết lập đường này, cổ phiếu đã hình thành một Sự phá vỡ Mô hình Ba Đáy và một Sự phá vỡ Mô hình Ba Đỉnh vào tháng 10. Chữ "A" màu đỏ đánh dấu sự bắt đầu của tháng 10, và chữ "B" màu đỏ đánh dấu sự bắt đầu của tháng 11.
Biểu đồ P&F cho thấy một Đường Kháng cự Giảm giá, một tín hiệu phá vỡ Mô hình Ba Đáy và một sự phá vỡ Mô hình Ba Đỉnh trong biểu đồ P&F.
- Trên biểu đồ P&F, biến động giá được biểu thị bằng các Cột X tăng và Cột O giảm. Mỗi cột thể hiện một xu hướng tăng hoặc giảm. Mỗi 1 X hoặc O chiếm một ô trên biểu đồ. Mỗi biểu đồ có một thiết lập gọi là Kích thước Ô, xác định phạm vi giá cho mỗi ô.
- Mỗi biểu đồ có một thiết lập thứ hai gọi là Lượng Đảo chiều, xác định mức giá mà cổ phiếu cần di chuyển theo hướng ngược lại để đảm bảo sự đảo chiều của cột. Bất cứ khi nào ngưỡng đảo chiều này bị vượt qua, một cột mới sẽ được bắt đầu ngay bên cạnh cột trước đó, nhưng di chuyển theo hướng ngược lại.
- “Khoảng cách đảo chiều” là kích thước ô nhân với lượng đảo chiều. Kích thước ô là 1 và lượng đảo chiều là 3 sẽ yêu cầu một biến động ba điểm (3$/đơn vị tiền tệ) để đảm bảo sự đảo chiều (1 x 3). Cột X sẽ tiếp tục mở rộng miễn là giá không giảm quá “khoảng cách đảo chiều”. Tương tự, một cổ phiếu đang trong xu hướng giảm sẽ xuất hiện một Cột O giảm dần. Chỉ khi cổ phiếu thay đổi hướng nhiều hơn khoảng cách đảo chiều thì một cột X mới mới được thêm vào biểu đồ.
- Biểu đồ P&F tại StockCharts.com cho phép người dùng lựa chọn hộp/ô dựa theo biểu đồ truyền thống, phần trăm, ATR hoặc biểu đồ do người dùng xác định. Biểu đồ hộp truyền thống sử dụng một bảng các khoảng giá được xác định trước để xác định kích thước hộp. Bảng này ban đầu được tạo ra bởi những người tại ChartCraft và sau đó được phổ biến bởi Tom Dorsey trong cuốn sách Point & Figure Charting của ông.
- Biểu đồ hộp phần trăm sử dụng kích thước hộp là một tỷ lệ phần trăm cố định của giá cổ phiếu. Ví dụ: nếu biểu đồ sử dụng tỷ lệ 5% và giá cổ phiếu là 100 đô la, kích thước hộp cho phần đó của biểu đồ sẽ là 5,00 đô la.
- Biểu đồ hộp ATR sử dụng kích thước hộp dựa trên Biên độ Thực Trung bình (ATR) hàng ngày. Mặc định được đặt là 20 ngày. Tuy nhiên, cần cẩn thận với thiết lập này vì nó thay đổi khi ATR thay đổi. Các tín hiệu trước đó có thể biến mất khi ATR thay đổi kích thước hộp.
- Việc điều chỉnh kích thước hộp do người dùng xác định cho phép người dùng thiết lập kích thước hộp. Kích thước hộp lớn hơn sẽ dẫn đến biến động giá được lọc nhiều hơn và ít đảo chiều hơn. Kích thước hộp nhỏ hơn sẽ dẫn đến biến động giá được lọc ít hơn và nhiều đảo chiều hơn.
- Biểu đồ P&F không hiển thị thời gian trên khung ngang. Trái ngược với biểu đồ thanh, khoảng cách giữa các thay đổi giá sẽ không đối xứng. Biểu đồ chỉ phát triển khi có sự thay đổi giá đủ lớn để đảm bảo một cột X, O đảo chiều. Người dùng biểu đồ có thể xem sự trôi qua của thời gian theo tháng. Các con số và chữ cái trên biểu đồ cho biết thời điểm một tháng mới bắt đầu. Ví dụ, số "2" cho biết tháng Hai bắt đầu. Các chữ cái "A", "B" và "C" được sử dụng để chỉ đầu tháng Mười, tháng Mười Một và tháng Mười Hai.
- Có hai phương pháp thiết lập biểu đồ khả dụng: Phương pháp Cao-Thấp và Phương pháp sử dụng giá Đóng cửa. Mỗi phương pháp chỉ sử dụng một điểm giá. Rõ ràng, Phương pháp Đóng chỉ sử dụng giá đóng cửa. Phương pháp Cao-Thấp sử dụng mức cao nhất hoặc mức thấp nhất, nhưng không phải cả hai. Đôi khi cả hai đều bị bỏ qua. Sau đây là các quy tắc cho phương pháp Cao-Thấp. Khi cột hiện tại là Cột X (tăng): Sử dụng mức cao khi giá có thể tạo thêm một box X nữa và sau đó bỏ qua mức thấp; Sử dụng mức thấp khi giá không thể tạo thêm một box X nữa và mức đáy kích hoạt đảo ngược 3 ô. Bỏ qua cả hai khi mức cao không đảm bảo việc tạo thêm một X nữa và mức thấp không kích hoạt đảo ngược 3 ô. Khi cột hiện tại là Cột O (giảm): Sử dụng mức thấp khi giá có thể tạo thêm một box O nữa và sau đó bỏ qua mức cao; Sử dụng mức cao khi giá có thể tạo thêm một box O nữa và mức cao kích hoạt đảo ngược 3 ô; Bỏ qua cả hai khi mức thấp không đảm bảo việc giá có thể tạo thêm một O nữa và mức cao không kích hoạt đảo ngược 3 ô.
- Hộp P&F không biểu thị một mức giá duy nhất, mà là một phạm vi giá phụ thuộc vào phương pháp điều chỉnh tỷ lệ hộp được chọn, cũng như hướng của cột hiện tại. Phạm vi sẽ là tăng khi cột hiện tại là cột X tăng và giảm khi cột hiện tai là cột O giảm. Giả sử người dùng đã chọn điều chỉnh tỷ lệ hộp do người dùng xác định với kích thước hộp là 1.0 cho biểu đồ P&F của họ. Đối với Cột X tăng trên biểu đồ đó, hộp được đánh dấu bằng số 12 sẽ dao động từ 12 đến 12,99 và hộp được đánh dấu bằng số 13 sẽ dao động từ 13 đến 13,99. Giá sẽ vẫn nằm trong hộp 12 miễn là chúng dao động từ 12 đến 12,99.
Hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu về đường xu hướng trên biểu đồ PnF:
Đường xu hướng trên biểu đồP&F được vẽ ở góc 45 độ hướng lên và 135 độ hướng xuống nên chúng được gọi là đường xu hướng khách quan (không phụ thuộc vào sự chủ quan của người vẽ. Đường xu hướng tăng được gọi là Đường Hỗ trợ Tăng, và đường xu hướng giảm được gọi là Đường Kháng cự Giảm. Chúng có tên như vậy là vì chúng vừa đóng vai trò xác định xu hướng, đồng thời là các hỗ trợ, kháng cự. Vì các đường này được vẽ ở các góc cụ thể, chúng thể hiện tốc độ tăng hoặc giảm cụ thể. Đường xu hướng P&F xác định xu hướng chung và giúp xác định các tín hiệu theo xu hướng chính.
Đường Xu hướng Thay đổi
Trong biểu đồ P&F, luôn có Đường Hỗ trợ Tăng hoặc Đường Kháng cự Giảm. Sau khi vượt lên trên Đường Kháng cự Giảm, một Đường Hỗ trợ Tăng sẽ được vẽ từ một đáy quan trọng. Đường này sẽ mở rộng lên một góc 45 độ và duy trì hiệu lực cho đến khi bị phá vỡ. Khi bị phá vỡ, Đường Hỗ trợ Tăng sẽ ngừng hoạt động và một Đường Kháng cự Giảm mới sẽ được vẽ từ một đỉnh quan trọng gần điểm phá vỡ. Đường này sẽ mở rộng xuống một góc 135 độ và duy trì hiệu lực cho đến khi bị phá vỡ.
Biểu đồ bên dưới cho thấy Noble Drilling (NE) với bốn đường xu hướng. Đường Kháng cự Giảm kéo dài đến hết năm 2008 và bị phá vỡ vào đầu năm 2009 (màu đỏ 2). Đường Kháng cự Giảm kết thúc, và một Đường Hỗ trợ Tăng được vẽ từ mức thấp. Đường này kéo dài đến hết năm và bị phá vỡ vào tháng 4 năm 2010 (giữa màu đỏ 4 và màu đỏ 5). Một Đường Kháng cự Giảm mới được vẽ từ mức cao cho đến khi phá vỡ vào tháng 10 năm 2010 (màu đỏ A).
Đường Kháng cự Giảm và Tăng trong biểu đồ P&F.
Đường Hỗ trợ Tăng
Nhìn chung, xu hướng tăng xuất hiện khi giá nằm trên đường Hỗ trợ tăng. Đường này mở rộng lên một góc 45 độ để đảm bảo một tốc độ tăng nhất định. Biến động giá đi ngang hoặc tốc độ tăng chậm hơn sẽ dẫn đến việc phá vỡ đường xu hướng. Theo lý thuyết P&F, tín hiệu mua nên được đưa ra khi giá nằm trên đường xu hướng này, và tín hiệu giảm nên được bỏ qua và sử dụng như tín hiệu đóng lênhj. Đây là giao dịch theo hướng của xu hướng chính.
Biểu đồ bên dưới cho thấy mã cổ phiếu Agilent (A) với Đường Hỗ trợ Tăng màu xanh lam. Có ít nhất ba tín hiệu tăng giá trên đường xu hướng này. Đã có hai lần phá vỡ mô hình Ba Đỉnh vào năm 2009, tiếp theo là một lần phá vỡ Mô hình Tín hiệu Giảm đảo ngược vào cuối năm 2010. Chữ "A" màu đỏ trên biểu đồ đánh dấu sự phá vỡ Mô hình Hai Đỉnh, xác nhận mô hình đảo chiều sau tín hiệu giảm. Chữ "A" màu đỏ này cũng đánh dấu tháng Mười.
Biểu đồ thể hiện một đường hỗ trợ tăng, môt tín hiệu phá vỡ mô hình Ba Đỉnh và mô hình đảo chiều sau tín hiệu giảm
Đường Kháng cự Giảm
Xu hướng giảm hiện diện khi giá vẫn nằm dưới Đường Kháng cự Giảm. Đường này kéo dài xuống một góc 135 độ, chỉ là một góc 45 độ đảo ngược (180 - 45 = 135). Góc này đòi hỏi một tốc độ giảm nhất định. Biến động giá đi ngang hoặc giảm chậm hơn sẽ dẫn đến sự phá vỡ đường xu hướng. Theo lý thuyết P&F, chúng ta sẽ vào lệnh bán khi có tín hiệu bán xuất hiện dưới Đường Kháng cự Giảm giá. Tín hiệu tăng giá nên được bỏ qua hoặc sử dụng để chốt lời cho các vị thế bán khống.
Biểu đồ dưới đây cho thấy giá Qualcom (QCOM) nằm dưới Đường Kháng cự Giảm vào cuối năm 2008. Sau khi thiết lập đường này, cổ phiếu đã hình thành một Sự phá vỡ Mô hình Ba Đáy và một Sự phá vỡ Mô hình Ba Đỉnh vào tháng 10. Chữ "A" màu đỏ đánh dấu sự bắt đầu của tháng 10, và chữ "B" màu đỏ đánh dấu sự bắt đầu của tháng 11.
Biểu đồ P&F cho thấy một Đường Kháng cự Giảm giá, một tín hiệu phá vỡ Mô hình Ba Đáy và một sự phá vỡ Mô hình Ba Đỉnh trong biểu đồ P&F.
Nguồn: Stockcharts
Giới thiệu sách Trading hay
Khám phá Nghệ thuật Giao dịch Tiền tệ Chuyên nghiệp
Sách được viết bởi FX Trader chuyên nghiệp, có gần 30 năm giao dịch Forex cho các ngân hàng lớn thế giới như Citi, Nomura hay HSBC, đồng thời từng trading cho quỹ đầu cơ có vốn hàng chục triệu đô la
Bài viết liên quan